Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2012

Kỷ niệm mối tình đầu của tôi !


                  C120mm tháng 6 năm 1971- Tại Trường Sỹ quan Lục quân 1- Ba Vì- Sơn Tây- Hà Tây

Cũng vào những ngày tháng này của năm 1974, là năm đầu tiên chúng tôi được đơn vị cho về ăn tết với gia đình sau 4 năm sống trong quân ngũ. Đồng thời cũng là cái tết buồn, vì tôi đã vĩnh viễn mất em, người bạn, người yêu, người hàng xóm thân thiết nhất của tôi. Chấm dứt "một mối tình" sau gần một năm chúng tôi tìm hiểu qua thư từ và những lần ngồi bứt cỏ, vặt hoa dại khi tâm sự với em bên dòng sông nhỏ chảy quanh làng.
Khi ngồi viết lại những dòng hoài niệm này thì chúng tôi mỗi đứa đều đã yên bề gia thất, đã trở thành bà, thành ông. Để khỏi ảnh hưởng đến cuộc sống và hạnh phúc sau này của em, nên tên thật của các nhân vật đã được tôi thay đổi.
 Ngày 27 tháng 01 năm 1973 Hiệp định Paris được ký kết và có hiệu lực vào 7 giờ ngày 28 tháng 3 năm 1973. Nội dung hiệp định đã đáp ứng được 4 yêu cầu cơ bản của ta:
- Mỹ phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
- Mỹ phải rút hết quân Mỹ và chư hầu, bãi bỏ hết các căn cứ quân sự, cam kết không dính lứu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của nước Việt nam, để cho nhân dân miền Nam Việt Nam quyết định lấy tương lại chính trị của mình.
- Mỹ và chính quyền Sài Gòn phải công nhận Chính phủ lâm thời Cộng hoà Nam Việt Nam là một bên của hai bên Nam Việt Nam, trên thực tế Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.
- Mỹ phải bồi thường chiến tranh.
Ngày 2 tháng 3 năm 1973, 12 đoàn đại biểu của các chính phủ Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Việt Nam cộng hoà (nguỵ Sài Gòn), 4 nước trong uỷ ban kiểm soát và giám sát việc thi hành hiệp định Paris về Việt Nam (Hung ga ri, Ba Lan, In đô nê xia, Ca na đa) đã họp hội nghị quốc tế về Việt Nam, thông qua định ước ghi nhận và bảo đảm Hiệp định và các nghị định thư về Việt Nam.
Ngày 29 tháng 3 năm 1973, Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn làm lễ cuốn cờ. Đơn vị cuối cùng của quân đội Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam, chấm dứt sự có mặt của quân đội ngoại xâm trên đất nước ta sau 115 năm.
Đây là một bước ngoặt về chiến lược hết sức quan trọng dẫn đến bất lợi cho địch về so sánh tương quan lực lượng. Sự thay đổi cả về thế và lực đó đã dẫn tới sự thay đổi cục diện chiến trường, đánh dấu sự thất bại của chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” về quân sự của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
Xuất phát từ thực tế yêu cầu có nguồn cán bộ cơ bản và lâu dài, phục vụ cho sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc sau này, sau hơn mt năm chiến đấu tại chiến trường Quảng Trị, chúng tôi lại quay về mái trường thân yêu để tiếp tục học tập, giữa lúc ta chuẩn bị cho lễ duyệt binh chào mừng thắng lợi sau khi ký kết hiệp định Pari và kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5.
Khi quay trở lại trường, thì các đơn vị tham gia duyệt binh đã ở kín doanh trại, nên đơn vị chúng tôi phải tạm đóng quân ngoài nhà dân thuộc các thôn Trại Láng, Triều Đông thuộc xã Cổ Đông, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây (nay đã sát nhập về Hà Nội). Tại đây chúng tôi được cấp trên cho về nghỉ phép sau khi lễ duyệt binh xong thì quay lên trường.
Những ngày cuối tháng 4 năm 1973 tiết trời rất nóng bức, anh em chúng tôi hành quân từ trường ra phố Gạch để bắt xe về Hà Nội. Hồi đó không có xe ôm như bây giờ, chủ yếu đi bộ là chính, nếu ai nhờ được gia đình có xe đạp chở đi là hạnh phúc lắm rồi. Nhìn cái cảnh người lính khoác chiếc ba lô đi bộ từ bến xe Kim Mã qua cửa Nam về Ga Hà Nội lúc bấy giờ cảm thấy rất bình thường. Nhóm anh em quê Nam Định chúng tôi lúc đó có 5 người thay nhau xếp hàng mua vé. Chúng tôi là bộ đội có giấy phép nên mua vé rất nhanh (Vì có cửa ưu tiên). Cuối cùng bằng chuyến tầu chợ với giá vé giảm 50% (lúc đó là 5 hào rưỡi) sau 1 ngày, năm anh em chúng tôi cũng có mặt tại ga Nam Định. Đi tầu lúc đó rất vất vả, thôi thì thượng vàng hạ cám đều cho lên tầu hết. Người ngồi chung với hàng hoá, lợn, gà, gánh gồng,…chỗ nào trống mà ngồi được là hạnh phúc lắm rồi, làm gì có số toa, số ghế như bây giờ. Ngày đó người ta quen gọi là tầu chợ.
Sau hơn một năm xa nhà, khi quay về nhà mọi cảnh vật xung quanh làng tôi đã có nhiều sự thay đổi. Con đường nhựa trơ trọi, những cánh đồng loang lổ hố bom, hằn lên những vết tích của những trận đánh phá ác liệt của máy bay Mỹ vào mùa Đông năm 1972. Và làng tôi chỉ toàn thấy phụ nữ, bà già và trẻ em, vì các thanh niên trai tráng đã lên đường ra mặt trận hết. Anh trai tôi vào Nam chiến đấu cũng đã được 4 năm trời, gia đình không nhận được tin tức…Bà nội và mẹ tôi luôn nhắc đến anh “không hiểu nó còn hay mất ?”
Hồi đó ở quê mà có ai đi bộ đội trong chiến trường ra là cả làng hỏi thăm, nhà tôi không lúc nào hết khách, nhất là các bạn nữ thanh niên.
Em và tôi đến với nhau vào một buổi chiều thật tình cờ. Hôm đó các bạn nam nữ thanh niên trong Đội 202 (đội thuỷ lợi của xã) tụ tập ở nhà tôi tổ chức hoan, vì em trai tôi là thư ký của đội. Tôi thấy trong một đám đông có một cô bé trắng hồng, người mập, thỉnh thoảng cứ liếc mắt nhìn tôi thẹn thùng. Tan cuộc, mọi người vui vẻ ra về, tôi hỏi nhỏ em trai: Tên cô bé đó là gì ? Nó con cái nhà ai vậy ? Nó tên là Sương con ông bà Thà, nhà bên cạnh bờ sông, cầu ao có một cây dừa và một cây nhãn đó anh ! Và sắp tới nhà nó chuyển nhà vào ngay bên cạnh nhà mình đây này ! Em trai tôi trả lời và chỉ sang mảnh vườn bên cạn cách nhà tôi có một bờ rào.
Buổi tối hôm đó khi ngồi ăn cơm vui vẻ với gia đình, bố mẹ tâm sự với tôi: Con ạ, nhà mình thì đông anh em, những bảy đứa, đã có ba đứa có thể xây dựng gia đình được rồi. Bây giờ bố mẹ đã già yếu, phải lo xây dựng gia đình cho các con dần đi, nếu để lâu bố mẹ sẽ vất vả. Nếu theo quy luật thì anh cả con phải xây dựng gia đình trước, nhưng hiện nay anh con đang còn ở chiến trường không biết sống chết ra sao. Theo bố, con nên tìm hiểu trước đi để khi ra trường tổ chức là vừa.
Tôi giật mình, mình mới có 21 tuổi, lấy vợ sớm quá có nên không; suốt đêm đó tôi dằn vặt, suy nghĩ. Nghĩ đi thì vậy, nghĩ lại thì thương bố mẹ và các em, nên tôi thấy cũng xuôi lòng. Tôi tâm sự với thằng em trai bảo nó làm nhịp cầu nối giữa tôi và Sương. Và sau cái buổi gặp nhau ban đầu ấy, tối nào chúng tôi cũng gặp nhau bên cây dừa cạnh cầu ao nhà em. Thời gian nghỉ phép thấm thoát trôi nhanh, trước khi trở lại trường chúng tôi hứa hẹn với nhau một ngày gần nhất thưa chuyện với bố mẹ hai bên để tổ chức đám cưới.
 Sau gần một tháng nghỉ phép, tôi quay lại trường tiếp tục học tập trong lòng đầy ắp những kỷ niệm về mối tình đầu của tôi. 
Những ngày đầu lên trường tôi và em trao đổi thư từ với em đều đặn. Tuy nhiên, sau một thời gian tôi viết thư liên tục, nhưng không nhận được thư trả lời của em. Trong lòng tôi nóng như lửa đốt, viết thư về cho em gái tôi hỏi xem có chuyện gì chẳng lành đã xảy ra. Em gái viết thư trả lời tôi là đừng viết thư cho chị ấy nữa, chị ấy có người khác rồi. Tôi rất buồn, và tự hỏi, tại sao con người ta lại thay đổi một cách nhanh chóng như vậy và thầm trách em sao không viết thư trả lời thẳng cho tôi ?
Thời gian học tập, huấn luyện của chúng tôi trôi đi cũng rất nhanh, mới ngày nào quay lên trường thế mà chẳng mấy chốc năm 1973 đã kết thúc. Cái tết nguyên đán 1973-1974 năm ấy tôi được về vui chung cùng với gia đình.
Khi tôi về đến nhà thì cũng đúng vào cái ngày mà nhà trai mang lễ đến dạm ngõ nhà em. Đối với tôi không có gì đột ngột, vì đã được xác định từ trước. Với em, tôi chỉ muốn hỏi một câu rằng, tại sao em có người yêu mới rồi không biên thư trả lời cho tôi biết và chúc em hạnh phúc mãi mãi bên người mình yêu. Em chỉ khóc mà không nói với tôi một lời. 
Thời gian trôi đi, cái tết cổ truyền dân tộc càng đến sát, ông bố của em cũng là bộ đội công tác ở Bộ Tư lệnh TTLL buồn với công việc gia đình nên bỏ lên đơn vị sớm. Đúng ngày 26 tết em có nói với tôi là mẹ em có công chuyện cần gặp. Theo đúng lời hẹn, tôi đến thăm nhà em, mẹ em nói với tôi là không biết hai đứa yêu nhau, “cơi trầu bỏ ngõ là cơi trầu bỏ đi “.  Thôi, nếu anh chị quyết tâm đến với nhau thì về suy nghĩ đến tối 28 tết xuống trả lời để bà biết, để bà mang trả lại lễ người ta. Tôi ra về trong long cũng không buồn, và cũng chẳng vui, vì những ý nghĩ để trả lời bà tôi đã chuẩn bị từ trước khi tôi nghỉ phép.
Theo lời hẹn, đúng 20 giờ ngày 28 tết tôi có mặt để trả lời ý kiến của mình trước gia đình em. Nhà em đang tổ chức một cuộc họp họ, hàng bàn về chuyện trăm năm của em. Tôi đứng ngoài nghe toàn bộ những ý kiến phân tích của các thành viên. Có nhiều ý kiến phân tích, nhưng tựu chung gồm các vấn đề:
- Họ so sánh giữa tôi và người yêu mới của em: "Tôi đẹp trai còn anh Long có xấu trai hơn, nhưng lại là con một không phải đi bộ đội. Đẹp không mài ra ăn được, nhỡ đi chiến trường mẻ gáo thì khổ cả đời. Khôn, cơm không ăn, dại thì ăn c…
- Về gia đình tôi đông anh em (7 anh em, 6 trai, 1 gái), về nhà phải lao động, như con trâu kéo cày trả nợ, khổ. Còn về nhà anh Long, hộ khẩu thành phố, có sổ gạo, nhà lại bán hàng nước, về đó chỉ ngồi đấy, muốn ăn cái gì có cái đấy…
Họ lo tương lai cho con cháu như vậy là đúng thôi ! không còn gì phải bàn cãi, nhưng bảo lấy tôi về nhà làm con trâu kéo cày trả nợ thì đâu có đúng. Hơn nữa đừng bao giờ xúc phạm đến tôi và em. Người ta thường nói : “một mẹ có thể nuôi được 10 đứa con, nhưng mười đứa con chưa chắc nuôi nổi được một người mẹ”. Âu cũng chỉ là cái nợ đồng lần mà thôi. Bố mẹ nuôi ta, đến ta lại nuôi con ta, chứ ta có nuôi được bố mẹ ta đâu ?
Sau cuộc họp, đến giờ cả họ nhà em nghe ý kiến của tôi. Tôi đã trả lời thẳng vào vấn đề luôn, việc trăm năm của con cái không phải là mớ rau mớ cỏ mà bảo nhận lễ của người ta rồi nay lại mang trả lại. Hơn nữa như gia đình vừa phân tích trong cuộc họp, nên tôi chúc cho em và cả gia đình hạnh phúc.
Tôi ra về trong lòng thật thanh thản, như trút đi được nỗi buồn mà tôi phải mang trong suốt thời gian gần một năm trời. Không ai có lỗi trong chuyện này. Tất cả là tại chiến tranh, tại nghèo khó cả mà thôi. Tôi cũng không trách bố mẹ tôi tại sao lại nghèo ? Bởi vì, người ta thường nói: "con không bao giờ chê cha mẹ nghèo khó, chó không bao giờ chê chủ nghèo"

Hết phép, tôi quay trở về đơn vị với một nỗi buồn man mác, trong lòng tâm niệm một lời thề :
- Một là: Không giải phóng miền Nam tôi sẽ không bao giờ lấy vợ !
- Hai là: Không bao giờ tôi lấy vợ là con gái trong làng ! (Bởi vì gái làng tôi lúc bấy giờ sống rất thực dụng).
- Ba là: Phải cố gắng vươn lên bằng nghị lực, bằng chính bàn tay, khối óc của mình để không bao giờ được nghèo khó !
Lời thề đó theo tôi suốt những năm tháng của cuộc chiến tranh, và có thể nói theo suốt cuộc đời quân ngũ của tôi. Mãi đến năm 1977, sau khi đất nước thống nhất được 2 năm bố mẹ tôi giục tôi mới chịu cưới vợ (ngày 24 tháng 10 là ngày cưới của tôi) và cả tập 1 và tập 2 sau này của tôi đều không phải là gái trong làng. 

C120 mm tháng 12/1974

Còn về phần em, sau cái ngày bỏ tôi, em cũng không lấy được anh Long, người yêu mới đó, chỉ vì một lý do đơn giản là không nhập được hộ khẩu nội thành. Đến năm 1978 em đi xây dựng gia đình. Đến hôm nay, sau mỗi lần gặp lại, chúng tôi đã trở thành hàng xóm tốt của nhau. Tôi hiểu rằng trên cuộc đời này đến đôi giầy, đôi tất, cái mũ, hay bộ quần áo dài, quần áo lót.... đều có số cả. Vậy cuộc đời chúng ta mỗi người đều có một số phận đó là lẽ tất nhiên thôi, có phải không các bạn ? Hãy vui vẻ lên, và bằng lòng với số phận của mình, đó là điều hạnh phúc nhất của mỗi người chúng ta !

Bây giờ đây, cuộc sống trong làng tôi đã có nhiều thay đổi, đường làng đã trở thành đường phố; xã đã trở thành phường. Đời sống kinh tế đã ngày một khá hơn, con người ta sống với nhau thân thiện hơn. Mỗi lần qua cây Nhãn, cây Dừa bên cạnh nhà em, mỗi một lần khi gặp em, nhìn cái cảnh vất vả, tất bật với cuộc sống thường ngày của em, những kỷ niệm của một thời trai trẻ, thời yêu đương lại vọng về trong lòng tôi !
 (C120mm)

2 nhận xét: